PHẦN THỨ HAI: NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT SAU 30 NĂM TÁI LẬP TỈNH NINH BÌNH
Diện mạo thành phố Ninh Bình ngày càng văn minh, hiện đại.. Ảnh: Đinh Duy
Trong thời gian tỉnh mới được tái lập, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh gặp nhiều khó khăn. Ninh Bình lúc đó là một tỉnh nghèo. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 62,9% GDP, nhưng chưa phát triển toàn diện, tốc độ tăng trưởng chậm và chưa vững chắc, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc; sản lượng lương thực bình quân đầu người năm 1992 mới đạt trên 330 kg. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé, phân tán, manh mún; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả thấp, sản xuất kinh doanh ở nhiều đơn vị quốc doanh thua lỗ.
Năm 1992, tổng thu ngân sách trên địa bàn mới chỉ đạt gần 40 tỷ đồng, trong đó, thuế nông nghiệp chiếm khoảng 50% cơ cấu nguồn thu ngân sách. Lao động thiếu việc làm, trong khi dân số tăng cao. Hệ thống giao thông, công trình thủy lợi xuống cấp nghiêm trọng. Trường học, bệnh viện, trạm y tế xã còn thiếu và xuống cấp. Các vấn đề xã hội và đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể chậm đổi mới, chưa ngang tầm với nhiệm vụ đặt ra. GDP bình quân đầu người thấp, đạt 840.000 đồng/người/năm, đời sống một bộ phận Nhân dân còn rất khó khăn. 2.
Kết quả thực hiện các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh từ 1992 - 2020
a. Giai đoạn 1992 - 1995
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh đã phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giành được những thắng lợi lớn có ý nghĩa quan trọng, góp phần cùng cả nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho bước phát triển nhanh hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến năm 1995, nền kinh tế của tỉnh có bước phát triển mới, tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá, cao hơn so với các thời kỳ trước đây, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu chủ yếu, nổi bật là sản xuất nông nghiệp. Sản lượng lương thực đạt 31,9 vạn tấn; lương thực bình quân đầu người đạt 372 kg; tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân hàng năm đạt 15,2%; tỷ trọng giá trị công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng nông - công nghiệp đạt 23,65%.
Thu ngân sách trên địa bàn năm 1995 đạt gần 84,5 tỷ đồng. Tình hình xã hội có nhiều chuyển biến tốt. Đời sống của đại bộ phận Nhân dân ổn định và có nhiều mặt được cải thiện. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội và nền quốc phòng toàn dân được củng cố, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và Nhân dân. Hệ thống chính trị được đổi mới và tăng cường. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể được nâng cao.
b. Giai đoạn 1996 - 2000
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết, phấn đấu đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8,12%/ năm; trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,28%, công nghiệp tăng 15,12%, dịch vụ tăng 9,72%.
Đến năm 2000, sản lượng lương thực quy thóc đạt 45,5 vạn tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 504 kg. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 150 tỷ đồng. Cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Các hoạt động văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống của Nhân dân tiếp tục ổn định và nhiều mặt được cải thiện. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, ngày càng vững mạnh.
c. Giai đoạn 2001 - 2005
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Ninh Bình đã đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, trong đó nổi bật nhất là lĩnh vực phát triển kinh tế. Giai đoạn này, nền kinh tế của tỉnh đã bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Tốc độ tăng trưởng GDP (2001 - 2005), bình quân đạt 20,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2005, nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 30,9%; công nghiệp - xây dựng chiếm 35,7%; dịch vụ chiếm 33,4%. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Sản lượng lương thực quy thóc bình quân đạt 45,4 vạn tấn/năm; giá trị sản phẩm trên 1 ha đất canh tác đạt 25,4 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đến năm 2005 gấp 2,7 lần so với năm 2000. Giá trị sản xuất hàng xuất khẩu đến năm 2005 đạt 50,3 triệu USD; giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt 22 triệu USD.
Lĩnh vực dịch vụ, du lịch, giao thông vận tải, điện lực, bưu chính viễn thông đều có bước phát triển, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống.
Thu ngân sách trên địa bàn năm 2005 đạt 639 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,3 triệu đồng, gấp 2,1 lần năm 2000. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 còn 6,2% (theo tiêu chí năm 2000), cơ bản không còn hộ đói.
d. Giai đoạn 2006 - 2010 Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Ninh Bình tiếp tục phát huy được truyền thống và sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân, chủ động khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn của tỉnh, nỗ lực phấn đấu đạt kết quả toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
- Trong điều kiện có nhiều khó khăn, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh đạt 16,5%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 đạt 19.200 tỷ đồng, gấp 4,36 lần năm 2006. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm (theo giá cố định 1994): Nông, lâm nghiệp, thủy sản: 4,3%; công nghiệp: 28,4%; dịch vụ: 19,12%.
Cơ cấu kinh tế (theo GDP giá hiện hành) đến năm 2010: Công nghiệp - xây dựng: 48,9%; dịch vụ: 35,3%; nông, lâm nghiệp, thủy sản: 15,8%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 20,9 triệu đồng, tăng gần 4 lần so với năm 2005, bằng 90% so với bình quân chung cả nước (1.200 USD) và vượt bình quân vùng Đồng bằng sông Hồng (1.040 USD). Thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 đạt 3.066 tỷ đồng. Lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng có sự phát triển mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm tăng 28,4%. Những dự án lớn như: các nhà máy xi măng The Vissai, Hướng Dương, Duyên Hà, ô tô Thành Công, nhà máy kính Tràng An... đã góp phần làm tăng năng lực sản xuất và tạo giá trị tăng thêm. Huy động nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ bản tăng mạnh, cơ cấu nguồn vốn chuyển dịch theo hướng tích cực.
Trong giai đoạn này, tổng nguồn vốn đạt 46.000 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với thời kỳ 2001-2005. Nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác tăng cao, đạt 75 triệu đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2005. Du lịch có bước phát triển khá. Năm 2010, đón trên 3,3 triệu lượt khách du lịch đến Ninh Bình. Hoạt động xuất, nhập khẩu có chuyển biến tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 5 năm đạt 985 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt trên 240 triệu USD, tăng bình quân 26,2%/năm.
- Cùng với phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đạt nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện. Giáo dục - đào tạo phát triển khá toàn diện; công tác khoa học, công nghệ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được coi trọng. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm.
Văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao, báo chí, phát thanh - truyền hình, văn học - nghệ thuật có nhiều tiến bộ. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội được triển khai mạnh mẽ trong toàn tỉnh, trọng tâm là ở các xã có tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Công tác quân sự, quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trong địa bàn tỉnh.
đ. Giai đoạn 2011 - 2015 Giai đoạn này, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự quan tâm giúp đỡ của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, phát huy dân chủ, khắc phục khó khăn nên đã đạt được những kết quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cả nhiệm kỳ đạt 11,7%/năm, là mức tăng trưởng khá trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước suy giảm. So với năm 2010, quy mô GDP gấp 2,1 lần; tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản giảm xuống còn 12%; tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng tăng lên 48%; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên 40%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2015 đạt 4.379 tỷ đồng. Sản xuất công nghiệp có chuyển biến tích cực, tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá.
Một số dự án sản xuất mới hoàn thành (ô tô, linh kiện điện tử) đã đi vào hoạt động có hiệu quả. Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn có bước phát triển; có 83/257 làng nghề được UBND tỉnh công nhận; giá trị sản xuất từ nghề, làng nghề chiếm 19% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp cơ bản ổn định; vùng lúa chất lượng cao được mở rộng theo quy hoạch; an ninh lương thực được đảm bảo; tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 2,04%/ năm (giá so sánh 2010).
Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch có nhiều tiến bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác xây dựng nông thôn mới được thực hiện đồng bộ; tổng nguồn lực huy động trong 3 năm thực hiện chương trình là 7.915 tỷ đồng và đến hết năm 2015, có 40/119 xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới. Du lịch phát triển mạnh, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới. Năm 2015, số lượt khách đến tham quan các điểm du lịch đạt 6 triệu lượt (gấp 2 lần so với năm 2010); doanh thu từ du lịch đạt 1.200 tỷ đồng.
Dịch vụ thương mại, ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông và các lĩnh vực dịch vụ khác cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Giáo dục - đào tạo phát triển khá toàn diện; quy mô và mạng lưới các cấp học phát triển phù hợp, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của Nhân dân trong tỉnh; tỉnh Ninh Bình luôn đứng trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng.
Công tác quân sự, quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; công tác tư pháp, cải cách tư pháp, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, chất lượng hoạt động được nâng lên. Công tác xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo toàn diện, đạt kết quả tích cực. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh được nâng cao; công tác quản lý và điều hành của chính quyền các cấp có chuyển biến tích cực.
(Còn nữa)
Bài viết mới hơn
Bài viết cũ hơn
|
Đang truy cập :
45
•Máy chủ tìm kiếm : 1
•Khách viếng thăm : 44
Hôm nay :
917
Tháng hiện tại
: 307816
Tổng lượt truy cập : 19733592